Ghép Chữ Căn Bản
a) Từ ghép
Ta có bốn cách ghép từ thông dụng giữa Danh từ, Tính từ và Động từ
Khi ghép một tính từ với một danh từ theo thứ tự trên ta tạo ra một từ mới có Quan hệ bổ nghĩa. Tính từ đóng vai trò bổ nghĩa cho danh từ.
Thay vì dùng tính từ bổ nghĩa cho danh từ thì ta có thể dùng động từ để bổ nghĩa.
Khi đặt động từ sau danh từ ta có quan hệ tạo cú. Từ mới hình thành có nghĩa như một câu (cú 句) hoàn chỉnh.
Đây cũng là quan hệ tạo cú. Thay vì dùng động từ thì ta dùng tính từ sau danh từ.
Một cách ghép từ rất thông dụng khác là dùng một số từ cố định (ta gọi là gia từ) rồi ghép các từ khác vào trước nó để tạo thành danh từ mới nhưng có ý nghĩa tổng quát, thường dùng để chỉ người. Cấu trúc thông dụng: Danh/Tính/Động + Gia từ (giả,tử, nhân …)
Khi chuyển sang Tiếng Việt thì chỉ có cấu trúc 1/Tính + Danh (quan hệ bổ nghĩa) là dịch ngược danh từ trước rồi tới tính từ. Bốn cấu tạo ghép còn lại ta vẫn giữ nguyên thứ tự (cấu trúc 2/Động + Danh ta vẫn giữ nguyên thứ tự đối với các từ Hán Việt thông dụng). |
b) Từ kép
1/ Danh + Danh
Một số từ kép có quan hệ đẳng lập có thể hoán đổi vị trí, một số khác thì không hoán đổi mà dùng theo thói quen đã thông dụng từ lâu. Quan hệ Đối lập về ngữ nghĩa như thường viết có tính chất thứ bậc.
2/ Tính + Tính Khi ghép hai tính từ thì tạo các một tính từ mới có các nghĩa như sau:
3/ Động + động Hai động từ cũng hay đi chung với nhau tạo thành động từ kép. Động từ kép có ba quan hệ ngữ nghĩa sau:
Ba cách gọi trên tương ứng với cách gọi: Đẳng lập (tương đồng), Đối lập (tương phản) và Nhấn mạnh (tương trợ) của tính từ kép.
4/ Điệp tự Trong tiếng Hán rất hay dùng phép điệp tự (lặp lại một chữ) để tạo ra từ mới. Chúng thường dùng như trạng từ hay tính từ.
|
c) Từ nhiều tiếng