Kiến thức về Hán tự

Bài này dài và chuyên sâu từ trang cohanvan.com  và chinese.com.vn nói về lịch sử hình thành chữ viết tiếng Hoa và các kiến thức về thứ chữ viết thú vị này.

Dưới đây là các link về các phần bài viết riêng biệt, mỗi bài khá dài nên không gom lại một trang được, mọi người đọc thêm ở bài viết hai trang đã giới thiệu ở trên.

 

 

1. Nguồn gốc chữ Hán – giới thiệu và quá trình hình thành chữ viết qua các thời đại lịch sử

Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa.

Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt Tự 甲骨字), chữ viết xuất hiện vào đời nhà Ân (殷) vào khoảng thời 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được.

Chữ Giáp Cốt tiếp tục được phát triển qua các thời:

– Nhà Chu 周 (1021-256 TCN) có chữ Kim (Kim Văn 金文), là chữ viết trên các chuông bằng đồng và kim loại
– Chiến Quốc 戰國 (403-221 TCN) và thời nhà Tần 泰 (221-206 TCN) có chữ Triện (Đại Triện và Tiểu Triện) và có chữ Lệ (Lệ Thư 隸書)
– Nhà Hán 漢 (Tiền Hán 206 TCN-8 CN, Hậu Hán 25-220) có chữ Khải (Khải Thư 楷書)
Chữ Khải còn có thể được chia thành chữ Hành (Hành Thư 行書) và chữ Thảo (Thảo Thư 草書). Chữ Khải là loại chữ được dùng bút lông chấm mực tàu viết trên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở Nhật, Đài Loan hay Hồng Kông. Chữ Thảo là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặc ghép một số nét lại. Sự phát triển chữ Hán trải qua các thời kỳ có thể được minh họa bằng một số chữ sau:
Chữ Giáp Cốt → Chữ Kim → Chữ Triện → Chữ Lệ → Chữ Khải → Chữ Thư
Ngày nay chữ Hán ở Trung Quốc đã có xu thế được giản lược đơn giản hơn và ở Trung Quốc còn sử dụng hai loại chữ: chữ Chính thể (正體字) và chữ Giản thể (簡體字).

Cấu tạo chữ Hán:

a. Chữ Tượng Hình (象形文字):

“Tượng hình” có nghĩa là căn cứ trên hình tượng của sự vật mà hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và đơn giản.

 

b. Chữ Chỉ Sự (指事文字) hay chữ Biểu Ý (表意文字):

Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triển lên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữ Chỉ Sự. Ví dụ, để tạo nên chữ Bản (本), diễn đạt nghĩa “gốc rễ của cây” (根), thì người ta dùng chữ Mộc (木) và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa “ở đây là gốc rễ” và chữ Bản (本) được hình thành. Chữ Thượng (上), chữ Hạ (下) và chữ Thiên (天) cũng là những chữ Chỉ Sự được hình thành theo cách tương tự. “Chỉ Sự” có nghĩa là chỉ định một sự vật và biểu diễn bằng chữ.

 

c. Chữ Hội Ý (會意文字):

Để tăng thêm chữ Hán, học tiếng trung giao tiếp tại đây, cho đến nay người ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới.

Ví dụ, chữ Lâm (林, rừng nơi có nhiều cây) có hai chữ Mộc (木) xếp hàng đứng cạnh nhau được làm bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau (Rừng thì có nhiều cây!!). Chữ Sâm (森, rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng cách ghép ba chữ Mộc. Còn chữ Minh (鳴, kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu (鳥, con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口, mồm); chữ Thủ (取, cầm, nắm) được hình thành bằng cách chữ Nhĩ (耳, tai) của động vật với tay (chữ Thủ 手, chữ Hựu 又). Những chữ được tạo thành theo phương pháp ghép như trên gọi là chữ Hội Ý (會意文字). “Hội Ý” có nghĩa là ghép ý nghĩa với nhau.

 

d. Chữ Hình Thanh (形聲文字):

Cùng với những chữ Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữ Hán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ Hình Thanh (形聲文字). Chữ Hình Thanh chiếm tới 80% toàn bộ chữ Hán.

Chữ Hình Thanh là những chữ bao gồm hai phần: phần hình (形) là phần biễu diễn ý nghĩa chính mà đã được dùng từ lâu đời, và phần thanh (声) là phần biểu diễn cách phát âm chính xác của từ đó.

Ví dụ, chữ Khẩu (口) có hình biểu diễn việc ăn hoặc nói, và chữ Vị (未) có các phát âm giống chữ vị (trong khẩu vị) khi ghép hai chữ với nhau tạo nên chữ Vị (味) của khẩu vị. Bộ Thủy (氵) biểu diễn nghĩa dòng sông hoặc dòng nước chảy, khi ghép cùng với chữ Thanh (青, màu xanh) tạo thành chữ Thanh (清) có nghĩa là “trong suốt” hoặc “trong xanh”.

 

e. Chữ Chuyển Chú (轉注文字):

Các chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể trên, nhưng còn có những chữ có thêm những ý nghĩa khác biệt, và được sử dụng trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó.

Ví dụ, chữ Dược (藥), có nguồn gốc là từ chữ Nhạc (樂), âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn khởi nên chữ Lạc (樂) cũng có nghĩa là vui vẻ. Chữ Dược (藥) được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo (có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (樂). Chữ Khảo 考và Lão 老 có âm gần nhau vừa có nghĩa là “già” nên có thể dùng làm 1 cặp chuyển chú.

Như vậy chữ được hình thành theo phương pháp dùng chữ có cùng một bộ thủ, thanh âm gần nhau, ý nghĩa giống nhau, có thể chú thích cho nhau được gọi là chữ Chuyển Chú (轉注文字).

 

f. Chữ Giả Tá (假借文字):

Những chữ được hình thành theo phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm (dùng chữ đồng âm thay cho chữ có nghĩa mới mà không cần phải tạo ra chữ mới) được gọi là chữ Giả Tá (假借文字).

 

2. Tập viết chữ Hán – giới thiệu và hướng dẫn chi tiết về các nét và cách viết chữ, luyện thư pháp

a. Ba nét cơ bản

b. Ba nét xiên

c. Nét gập

d. Nét móc

e. Viết bút bi

3. Kết cấu chữ Hán – gồm Tứ hợp thể tự và Lục thư (6 cách sáng tạo ra chữ Hán)

4. Bộ thủ – liệt kê 214 bộ thủ

Danh mục 214 bộ Thủ trong tiếng Hán

STT BỘ TÊN BỘ PHIÊN ÂM Ý NGHĨA
1.  nhất yi số một
2.  cổn kǔn nét sổ
3. chủ zhǔ điểm, chấm
4. 丿 phiệt piě nét sổ xiên qua trái
5. ất vị trí thứ 2 trong thiên can
6. quyết jué nét sổ có móc
7. nhị ér số hai
8. đầu tóu
9. 人(亻) nhân( nhân đứng) rén người
10. Nhi ér Trẻ con
11. nhập vào
12. bát số tám
13. quynh jiǒng vùng biên giới xa; hoang địa
14. mịch trùm khăn lên
15. băng bīng nước đá
16. kỷ ghế dựa
17. khảm kǎn há miệng
18. 刀(刂) đao dāo con dao, cây đao (vũ khí)
19. lực sức mạnh
20. bao bao bọc
21. chuỷ cái thìa (cái muỗng)
22. phương fāng tủ đựng
23. hệ che đậy, giấu giếm
24. thập shí số mười
25. bốc xem bói
26. tiết jié đốt tre
27. hán hàn sườn núi, vách đá
28. khư, tư riêng tư
29. hựu yòu lại nữa, một lần nữa
30. khẩu kǒu cái miệng
31. Vi wéi vây quanh
32. thổ đất
33. shì kẻ sĩ
34. Trĩ zhǐ đến ở phía sau
35. Tuy sūi đi chậm
36. tịch đêm tối
37. đại to lớn
38. nữ nữ giới, con gái, đàn bà
39. tử con trai; ĐTNX ngôi thứ 2
40. Miên mián mái nhà, mái che
41. thốn cùn đơn vị «tấc» (đo chiều dài)
42. tiểu xiǎo nhỏ bé
43. Uông wāng yếu đuối
44. Thi shī xác chết, thây ma
45. triệt chè mầm non, cỏ non mới mọc
46. Sơn shān núi non
47. xuyên chuān sông ngòi
48. Công gōng người thợ, công việc
49. kỷ bản thân mình
50. Cân jīn cái khăn
51. Can gān thiên can, can dự
52. Yêu yāo nhỏ nhắn
53. 广 nghiễm ān mái nhà
54. dẫn yǐn bước dài
55. củng gǒng chắp tay
56. dặc bắn, chiếm lấy
57. Cung gōng cái cung (để bắn tên)
58. kệ đầu con nhím
59. Sam shān lông,  tóc dài
60. Xích chì bước chân trái
61. 心 (忄) tâm( tâm đứng) xīn quả tim, tâm trí, tấm lòng
62. Qua cây qua (một thứ binh khí dài)
63. hộ cửa một cánh
64. 手 (扌) thủ (tài gảy) shǒu Tay
65. Chi zhī cành nhánh
66. 攴 (攵) phộc đánh khẽ
67. Bán văn wén văn vẻ, văn chương, vẻ sáng
68. đẩu dōu cái đấu để đong
69. Cân jīn cái búa, rìu
70. phương fāng vuông
71. không
72. nhật ngày, mặt trời
73. viết yuē nói rằng
74. nguyệt yuè tháng, mặt trăng
75. mộc gỗ, cây cối
76. khiếm qiàn khiếm khuyết, thiếu vắng
77. chỉ zhǐ dừng lại
78. đãi dǎi xấu xa, tệ hại
79. thù shū binh khí dài, cái gậy
80. chớ, đừng
81. tỷ so sánh
82. mao máo lông
83. thị shì họ
84. khí hơi nước
85. 水 (氵) thuỷ shǔi nước
86. 火(灬) hỏa huǒ lửa
87. trảo zhǎo móng vuốt cầm thú
88. phụ Cha
89. hào yáo hào âm, hào dương (Kinh Dịch)
90. 爿 (丬) tường qiáng mảnh gỗ, cái giường
91. phiến piàn mảnh, tấm, miếng
92. nha răng
93. 牛( 牜) ngưu níu trâu
94. 犬 (犭) khuyển quản con chó
95. huyền xuán màu đen huyền, huyền bí
96. ngọc đá quý, ngọc
97. qua guā quả dưa
98. ngõa ngói
99. cam gān ngọt
100. sinh shēng sinh đẻ, sinh sống
101. dụng yòng dùng
102. điền tián ruộng
103. 疋(匹) thất đơn vị đo chiều dài, tấm (vải)
104. nạch bệnh tật
105. bát gạt ngược lại, trở lại
106. bạch bái màu trắng
107. Da
108. mãnh mǐn bát dĩa
109. mục mắt
110. mâu máo cây giáo để đâm
111. thỉ shǐ cây tên, mũi tên
112. thạch shí Đá
113. 示 (礻) thị (kỳ) shì chỉ thị; thần đất
114. nhựu róu vết chân, lốt chân
115. hòa Lúa
116. huyệt xué hang lỗ
117. lập đứng, thành lập
118. trúc zhú tre trúc
119. mễ gạo
120. 糸 (糹-纟) mịch sợi tơ nhỏ
121. phẫu fǒu đồ sành
122. 网 (罒- 罓) võng wǎng cái lưới
123. dương yáng con dê
124. 羽 (羽) lông vũ
125. lão lǎo Già
126. nhi ér mà, và
127. lỗi lěi cái cày
128. nhĩ ěr tai (lỗ tai)
129. duật cây bút
130. nhục ròu thịt
131. thần chén bầy tôi
132. tự tự bản thân, kể từ
133. chí zhì đến
134. cữu jiù cái cối giã gạo
135. thiệt shé cái lưỡi
136. suyễn chuǎn sai suyễn, sai lầm
137. chu zhōu cái thuyền
138. cấn gèn quẻ Cấn (Kinh Dịch); dừng, bền cứng
139. sắc màu, dáng vẻ, nữ sắc
140. 艸 (艹) thảo cǎo cỏ
141. vằn vện của con hổ
142. trùng chóng sâu bọ
143. huyết xuè máu
144. hành xíng đi, thi hành, làm được
145. 衣 (衤) y Áo
146. á che đậy, úp lên
147. 見( 见) kiến jiàn trông thấy
148. giác jué góc, sừng thú
149. 言 (讠) ngôn yán Nói
150. cốc khe nước chảy giữa hai núi
151. đậu dòu hạt đậu, cây đậu
152. thỉ shǐ con heo, con lợn
153. trãi zhì loài sâu không chân
154. 貝 (贝) bối bèi vật báu
155. xích chì màu đỏ
156. tẩu zǒu đi, chạy
157. túc chân, đầy đủ
158. thân shēn thân thể, thân mình
159. 車 (车) xa chē chiếc xe
160. tân xīn cay, vất vả
161. thần chén nhật, nguyệt, tinh; thìn (12 chi); chi thứ 5 địa chi
162. 辵(辶 ) quai xước chuò chợt bước đi chợt dừng lại
163. 邑 (阝) ấp vùng đất, đất phong cho quan
164. dậu yǒu một trong 12 địa chi
165. biện biàn phân biệt
166. dặm; làng xóm
167 kim jīn kim loại; vàng
168. 長 (镸- 长) trường cháng dài; lớn (trưởng)
169. 門 (门) môn mén cửa hai cánh
170. 阜 (阝) phụ đống đất, gò đất
171. đãi dài kịp, kịp đến
172. truy, chuy zhuī chim đuôi ngắn
173. mưa
174. 青 (靑) thanh qīng màu xanh
175. phi fēi không
176. 面( 靣) diện miàn mặt, bề mặt
177. cách da thú; thay đổi, cải cách
178. 韋 (韦) vi wéi da đã thuộc rồi
179. phỉ, cửu jiǔ rau phỉ (hẹ)
180. âm yīn âm thanh, tiếng
181. 頁 (页) hiệt đầu; trang giấy
182. 風 (凬-风) phong fēng Gió
183. 飛 (飞) phi fēi Bay
184. 食( 飠-饣) thực shí Ăn
185. thủ shǒu đầu
186. hương xiāng mùi hương, hương thơm
187. 馬( 马) con ngựa
188. cốt xương
189. cao gāo Cao
190. bưu, tiêu biāo tóc dài; sam (shān)=cỏ phủ mái nhà
191. đấu dòu chống nhau, chiến đấu
192. sưởng chàng rượu nếp; bao đựng cây cung
193. cách gélì tên một con sông xưacái đỉnh
194. quỷ gǔi con quỷ
195. 魚( 鱼) ngư con cá
196. 鳥 (鸟) điểu niǎo con chim
197. lỗ đất mặn
198. 鹿 lộc con hươu
199. 麥 (麦) mạch lúa mạch
200. ma cây gai
201. hoàng huáng màu vàng
202. thử shǔ lúa nếp
203. hắc hēi màu đen
204. chỉ zhǐ may áo, khâu vá
205. mãnh mǐn con ếch; cố gắng (mãnh miễn)
206. đỉnh dǐng cái đỉnh
207. cổ cái trống
208. thử shǔ con chuột
209. tỵ cái mũi
210. 齊 (斉 -齐) tề ngang bằng, cùng nhau
211. 齒 (歯 -齿) xỉ chǐ răng
212. 龍 (龙) long lóng con rồng
213. 龜 (亀-龟) quy guī con rùa
214. dược yuè sáo 3 lỗ

 

05. Thảo thư, Triện thư, Khải thư, Hành thư

Thảo thư

Thảo thư (草書, cǎoshū, sousho) hay chữ thảo là một kiểu viết chữ Hán của thư pháp Trung Hoa.

 

So với triện thư, lệ thư, khải thư và hành thư, thảo thư có bút pháp phóng khoáng và tốc độ viết chữ nhanh hơn cả. Mức độ đơn giản hóa của chữ thảo là lớn nhất trong số các kiểu chữ Hán có những chữ Hán mà theo lối khải thư thì viết nhiều nét nhưng theo lối thảo thư thì chỉ cần một nét.

Vì vậy thảo thư thường được dùng trong các trường hợp như tốc ký, thực hành nghệ thuật thư pháp, viết thư hay viết nháp một bản thảo. Tuy nhiên, thảo thư rất khó đọc, những người chỉ quen dùng khải thư (kiểu viết thông thường) có thể không đọc được các văn bản viết bằng thảo thư.
Triện thư (tiếng Trung:giản thể: 篆书; phồn thể: 篆書, bính âm: zhuànshū), hay chữ triện, là một kiểu chữ thư pháp Trung Quốc cổ. Đây là loại chữ tượng hình có nguồn gốc từ chữ giáp cốt thời nhà Chu và phát triển ở nước Tần trong thời kì Chiến quốc. Kiểu chữ triện của nhà Tần trở thành dạng chữ viết chính thức cho toàn Trung Quốc dưới thời nhà Tần và tiếp tục được sử dụng rộng rãi để khắc trang trí trên các ấn tín dưới thời nhà Hán.

 

 

Triện thư

Triện thư chia làm hai loại: đại triện và tiểu triện. Đại triện (大篆) là thể chữ phát triển từ Kim văn, lưu hành vào thời Tây Chu, không thống nhất và có nhiều dị thể ở các nước khác nhau. Tiểu triện (小篆) hay Tần triện (秦篆) là lối chữ phát triển từ Đại triện, ra đời từ khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất sáu nước và đề ra chính sách thống nhất văn tự.

Đây có thể coi là kiểu chữ thống nhất đầu tiên của Trung Quốc, do đó, khi nhắc đến triện thư thường là đề cập đến tiểu triện nhiều hơn. Tiểu triện được sử dụng từ khi nhà Tần thành lập đến khoảng thời Tây Hán, sau đó bi thay thế bởi Lệ thư với lối viết đơn giản hơn.

Chữ triện chủ yếu được dùng để khắc con dấu vì độ phức tạp cao và đặc tính hình dáng khiến cho chữ rất khó giả mạo. Ngoài ra, nhờ tính thẩm mỹ đặc thù, chữ triện còn được dùng để viết thư pháp.

Lệ thư (tiếng Trung: giản thể: 隶书; phồn thể: 隸書, bính âm: lì shū), hay chữ lệ, là một kiểu chữ thư pháp Trung Quốc. Đây là loại chữ giản lược từ triện thư, gần với chữ viết Trung Quốc hiện đại. Lệ thư xuất hiện từ thời Chiến quốc nhưng do lựa chọn của Tần Thuỷ Hoàng, triện thư đã được sử dụng chính thức trong thời gian dài trước khi bị lệ thư thay thế vì tính đơn giản hữu ích của nó.

Lệ thư có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống kí tự sau này của Trung Quốc, là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển chữ Hán, đánh dấu giai đoạn chữ viết dần thoát khỏi tính tượng hình ban đầu. Lệ thư là nền tảng phát triển thành khải thư, chữ viết phổ biến của Trung Quốc ngày nay. Đặc điểm của lệ thư là có hình chữ nhật, nét ngang hơi dài và nét thẳng hơi ngắn nên chữ có chiều ngang rộng hơn cao.

 

Giai đoạn phát triển lệ thư có thể chia làm 2 thời kì: Tần Lệ và Hán Lệ. Tần Lệ còn chịu nhiều ảnh hưởng từ triện thư. Hán Lệ dần vứt bỏ được những ảnh hưởng đó để phát triển thành loại chữ mới.

Thời Tây Hán ban đầu vẫn tiếp tục sử dụng loại chữ tiểu triện của nhà Tần, đến giai đoạn nhà Tân bắt đầu nảy sinh nhiều biến hoá lớn, chữ viết nảy sinh nhiều nét thay đổi. Đến thời Đông Hán, lệ thư đã hình thành nhiều phong cách.

 

Khải thư

Khải thư (Trung văn phồn thể: 楷書; Trung văn giản thể: 楷书; bính âm: kǎishū), còn gọi là chân thư (真書), chính khải (正楷), khải thể (楷體) và chính thư (正書), là phong cách viết chữ Hán ra đời muộn nhất (xuất hiện khoảng giữa thời Đông Hán và Tào Ngụy và phát triển thành phong cách riêng vào thế kỷ 7 CN),[1] do đó đặc biệt phổ biến trong việc viết tay và xuất bản hiện đại (chỉ sau các kiểu chữ Minh thể và gothic sử dụng riêng trong in ấn).

 

 

Hành thư

Hành thư (行書) là một phong cách viết chữ Hán bắt nguồn từ thảo thư. Tuy nhiên, vì nó không quá tháu như thảo thư cho nên dễ đọc hơn, và hầu hết những người đọc được khải thư cũng đều có thể đọc được hành thư. Một trong những nhà thư pháp nổi tiếng nhất viết theo lối hành thư là Vương Hi Chi thời Đông Tấn.

 

Xem thêm Cách học 24 bộ thủ  7 quy tắc vàng dạy viết cơ bản.

Chúc tiến bộ.

Thành tựu không đến từ sự thờ ơ, mộng ảo và ý chí cùn mà đến từ bàn tay, khối óc luôn miệt mài tranh đấu với thời gian.