Sưu tầm chiết tự chữ Hán

Sưu tầm từ chinese.com.vntiengtrunggiadinh.com
Khi đi học chữ Hán, mấy người không nhắc cho nhau câu:

Chim chích mà đậu cành tre
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.

(Chiết tự chữ đức 德)
Đó là một trong những mẹo nhớ chữ Hán của người xưa thường được gọi là chiết tự.

 

Chiết tự nảy sinh trên cơ sở nhận thức về hình thể của chữ Hán, cách ghép các bộ, cách bố trí các bộ, các phần của chữ. Trên phương diện nào đó, chiết tự chính là sự vận dụng phân tích chữ Hán một cách linh hoạt sáng tạo. Hơn thế nữa, nó không chỉ dừng lại ở hình thức phân tích chữ Hán thuần túy mà còn chuyển sang địa hạt văn chương và các trò chơi thử tài trí tuệ đầy thú vị và hấp dẫn.

 

Như chúng ta đã biết, ở chữ Hán luôn có sự kết hợp nổi bật của ba mặt: hình – âm – nghĩa. Và chiết tự trong những chữ Hán đã phát huy đặc điểm cấu trúc ba mặt này để tạo nên nét riêng độc đáo so với chiết tự ở những hệ thống văn tự khác. Chiết tự trong chữ Hán không chỉ chiết về mặt hình thể chữ mà còn liên hệ với cả phương diện âm và nghĩa. Về mặt hình thể, chiết tự dựa trên nguyên tắc phân chữ Hán ra các bộ phận cấu thành của chữ. Về mặt âm, chiết tự sử dụng các tri thức mang tính ngữ âm học như nói lái và phiên thiết. Về mặt nghĩa, chiết tự dựa vào bản chất biểu ý của chữ Hán. Một chữ Hán bất kỳ cũng gồm nhiều nét hay các phần tạo nên. Với chữ độc thể là các nét. Với chữ hợp thể là các bộ phận hợp thành phức tạp hơn về cấu trúc.

 

Chính nhờ nét riêng độc đáo này, chiết tự trong chữ Hán trở nên đa dạng về hình thức và kiểu loại, phong phú về nghệ thuật ngôn từ. Để dễ nhớ, chiết tự thường được thể hiện dưới dạng thơ hoặc văn vần qua hàng loạt các bài thơ, câu đố chiết tự, rất cuốn hút đối với người học chữ.

 

Những câu chiết tự kiểu như:

Cô kia đội nón chờ ai
Hay cô yên phận đứng hoài thế cô.

Câu trên là chữ (Chữ an 安)
Chiết tự trong chữ Hán đã trở nên quen thuộc với biết bao thế hệ học chữ Hán (đặc biệt là với trẻ nhỏ). Người ta còn dùng câu đố chiết tự để thử tài chữ nghĩa, thử tài suy đoán của nhau. Nhờ đó, chiết tự có điều kiện đi sâu vào trong đời sống Hán học, dần dần trở thành thói quen khi học chữ.

 

Chiết tự xảy ra với cả ba mặt hình – âm – nghĩa của chữ Hán, nhưng chủ yếu là ở hai mặt hình vànghĩa. Chẳng hạn:

– Đấm một đấm, hai tay ôm quàng
Thuyền chèo trên núi, thiếp hỏi chàng chữ chi ?

– Lại đây anh nói nhỏ em nì
Ấy là chữ mật một khi rõ ràng.

Đấm một đấm hai tay ôm quàng là dáng dấp của bộ miên thuyền chèo là dáng dấp của chữ tất 必, thuyền chèo trên núi, trên chữ sơn 山 có chữ tất 必. Ghép lại chúng ta được chữ mật 密 (bí mật, rậm rạp) (Chiết tự dựa vào hình thể).

Hay như:

Hai người đứng giữa cội cây,
Tao chẳng thấy mày, mày chẳng thấy tao.

Đó là hình chữ lai 來. Chữ lai 來 có hình hai chữ nhân 人 ở hai bên, chữ mộc 木 ở giữa. Thực ra hai chữ nhân 人 này vốn là tượng hình hai cái gai. Lai 來 là tên một loại lúa có gai, sau được dùng với nghĩa là đến. (Chiết tự về mặt hình thể).

Ba xe kéo lê lên đàng, âm vang như sấm.
Tây quốc hữu nhân danh viết Phật,
Đông môn vô thảo bất thành “lan”.

Câu trên có thể dịch là: “Nước phương Tây có người tên là Phật”. Phật Thích Ca là người Tây Trúc (ấn Độ) so với nước ta thì ở phương Tây, chữ Phật được viết với chữ nhân 亻đứng cạnh chữtây 西 trên chữ quốc 國. Chữ này không thấy có trong các từ điển, tự điển của Trung Quốc (nhưKhang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải…) nhưng có mặt trong một số câu đối tại các chùa Việt Nam.

Câu dưới có nghĩa: “Cửa phía Đông không có cỏ không thành lan”. Chữ lan 蘭 (hoa lan) được viết:thảo đầu 艸 (cỏ), ở dưới là chữ lan 闌 (lan can) gồm chữ môn 門 (cánh cửa), bên trong có chữ đông 東 (phương Đông). Trong cách viết chính quy phải thay đông 東 bằng giản 柬 (Chiết tự về mặt ý nghĩa).

 

Chiết tự về mặt âm đọc trong chữ Hán tiêu biểu nhất là lối phiên thiết phục vụ cho việc chú âm trong các sách học, các tự điển. Nó cũng xuất hiện rải rác trong các câu đố chữ Hán. Ví dụ như:

Con gái mà đứng éo le,
Chồng con chưa có kè kè mang thai.

Đây là câu đố chiết tự chữ thủy 始.Chữ thủy 始 vốn là một chữ hình thanh, có chữ thai 台 chỉ âm, chữ nữ 女 (con gái) nói nghĩa.

Những trường hợp này xuất hiện rất ít và thường thì không chỉ thuần nhất chiết tự về âm đọc mà còn kèm theo cả phần hình thể hoặc ý nghĩa.

 

Qua những ví dụ chúng tôi vừa dẫn ra trên đây, có thể thấy các câu đố chiết tự này có ý nghĩa không nhỏ đối với việc học nhớ chữ Hán. Dựa vào việc phân tích và mô tả cụ thể, sinh động hình thể chữ Hán, các câu đố chữ Hán đã giúp cho người giải đố có khả năng tái hiện lại những chữ đã học không mấy khó khăn. Đồng thời, nó cũng giống như một bài kiểm tra định kỳ cho người mới học mà việc thuộc lòng đề bài và lời giaỉ là rất dễ dàng (do tính ấn tượng của nó). Chẳng hạn những câu như:

Anh kia tay ngón xuyên tâm.
(Chữ tất 必)

Mặt trời đã xế về chùa.
(Chữ thời 時)

Việc vận dụng các liên tưởng hình ảnh vào hình thể, âm đọc hay ý nghĩa của chữ đã làm cho chiết tự nói chung và chiết tự trong câu đố chữ Hán nói riêng có tính sáng tạo cao. Nhờ đó mà các bộ phận cấu thành chữ Hán trở nên sống động, có hồn.

 

Trong số 70 câu đố chữ Hán trong kho tàng câu đố Việt Nam mà chúng tôi sưu tập được có đặc điểm chiết tự khá thú vị.

Dưới đây là một số ví dụ:

– Có tú mà chẳng có tài,
Cầm ngang ngọn giáo, đâm ngoài đít dê. (Chữ hy 羲)

– Chữ lập đập chữ nhật, chữ nhật đập chữ thập. (Chữ chương 章)

– Đất thì là đất bùn ao,
Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay.
Con ai mà đứng ở đây,
Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào. (Chữ hiếu 孝)

– Một vại mà kê hai chân,
Con dao cái cuốc để gần một bên. (Chữ tắc 則)

– Nhị hình, nhất thể, tứ chi, bát đầu,
Tứ bát, nhất bát phi toàn ngưỡng lưu. (Chữ tỉnh 井)

– Đóng cọc liễn leo, tả trên nhục dưới, giải bơi chèo. (Chữ tùy 隨)

– Đêm tàn nguyệt xế về Tây,
Chó sủa canh chầy, trống lại điểm tư. (Chữ nhiên 然)

– Con dê ăn cỏ đầu non,
Bị lửa cháy hết không còn chút đuôi. (Chữ mỹ 美)

– Thương em, anh muốn nên duyên,
Sợ e em có chữ thiên trồi đầu (Chữ phu 夫)

– Khen cho thằng nhỏ có tài,
Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm. (Chữ dũng 勇)

– Thiếp là con gái còn son,
Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề. (Chữ hảo 好)

– Ruộng kia ai cất lên cao,
Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa trời. (Chữ tư 思)

– Đất cứng mà cắm sào sâu,
Con lay chẳng nổi, cha bâu đầu vào. (Chữ giáo 教)

– Em là con gái đồng trinh
Chờ người tuổi Tuất gá mình vô em. (Chữ uy 威)

– Ông thổ vác cây tre, đè bà nhật. (Chữ giả 者)

– Đất sao khéo ở trong cung,
Ruộng thời hai mẫu, bờ chung ba bờ. (Chữ cương 疆)

– Muốn cho nhị mộc thành lâm
Trồng cây chi tử tiếng tăm lâu ngày. (Chữ tự 字)

– Hột thóc, hột thóc, phẩy đuôi trê,
Thập trên nhất dưới bẻ què lê. (Chữ pháp 法)

Chiết tự chữ Hán

Thêm một số ví dụ khác nữa về chiết tự chữ Hán:
Cô kia đội nón chờ ai
Hay cô yên phận đứng hoài thế cô.
– Đấm một đấm, hai tay ôm quàng
Thuyền chèo trên núi, thiếp hỏi chàng chữ chi ?
– Lại đây anh nói nhỏ em nì
Ấy là chữ mật một khi rõ ràng.
Hai người đứng giữa một cây,
Tao chẳng thấy mày, mày chẳng thấy tao.
Con gái mà đứng éo le,
Chồng con chưa có kè kè mang thai.
Thương em, anh muốn nên duyên,
Sợ e em có chữ thiên trồi đầu
Đất thì là đất bùn ao,
Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay.
Con ai mà đứng ở đây,
Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào.
Thiếp là con gái còn son,
Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề.
Nghìn vàng có thiếu chi đâu
Ba người cưỡi một con trâu không sừng
Thân em là gái nửa chừng, không răng có miệng xin đừng đắn đo
Hai người tựa gốc cây đa, quay đi ngoảnh lại hóa ra ba người
Một vầng trăng khuyết , ba sao giữa trời
Chó nhà cùng với chó ta
Hai con nói chuyện dưới nhà thợ sơn
“Nghiêng nghiêng bóng nguyệt xế tà (月),
Trên lầu chó sủa (犬), canh gà điểm tư (灬)”
Đêm tàn nguyệt 月xế về Tây,
Chó sủa 犬canh chầy, trống lại điểm tư. 灬
Cỏ gì mà mọc trên xe
Lúc đi, lúc đứng tiếng nghe thơm lừng
Bắc sào cho đỉa leo lên
Tả trên nguyệt dưới lênh đênh mái chèo

Tiếng khuyển犬 hai mồm口 nghe thảm khốc 哭
Thiên 天không sáo竹 trúc tiếu笑 trần gian.
Nhà tôi hăm mốt (廿) miệng ăn (口),
Núi Bắc (北)đã lở, đá lăn bốn hòn (灬)
Ông vua (王) mà mọc hai sừng (八),
Hai mươi (艹) cái miệng (口) xin đừng quên tôi.
Hạt thóc ( 、), hạt thóc (、), phẩy đuôi trê ( 冫),
Thập trên (十), nhất dưới (一) , bẻ què lê (厶)
Cây chôn dưới ruộng ăn ngay được
災(灾) Lửa đốt dòng sông thế mới gay
Con dê ăn cỏ đầu non,
Bị lửa cháy hết không còn chút đuôi.
Khen cho thằng nhỏ có tài,
Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm.
Ruộng kia ai cất lên cao,
Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa trời.
Em là con gái đồng trinh
Chờ người tuổi Tuất gá mình vô em.
Con lợn này giỏi quá ta,
Nằm dưới mái nhà học sách tam thiên
Đất cứng mà cắm sào sâu,
Con lay chẳng nổi, cha bâu đầu vào.
Một vại mà kê hai chân,
Con dao cái cuốc để gần một bên.
Có tú mà chẳng có tài,
Cầm ngang ngọn giáo, đâm ngoài đít dê.
Chữ lập đập chữ viết,
Chữ viết đập chữ thập.
Đất sao khéo ở trong cung,
Ruộng thời hai mẫu, bờ chung ba bờ.
轟 (轰) Hỡi anh cắp sách đi thi.
Ba xe chập lại chữ gì hỡi anh?
Nhị hình, nhất thể, tứ chi, bát đầu,
Tứ bát, nhất bát phi toàn ngưỡng lưu.
Ông thổ vác cây tre, đè bà nhật.
Muốn cho nhị mộc thành lâm
Trồng cây chi tử tiếng tăm lâu ngày.
聖(圣) Tai nghe mồm nói đít làm vua
Anh kia tay ngón xuyên tâm.
Mặt trời đã xế về chùa.
Đóng cọc liễu leo, tả trên nhục dưới, giải bơi chèo.
Chữ “Trung” giữ lấy làm đầu
“Nhất” lòng gìn giữ một màu không phai
người sang-trọng, kẻ trang-đài
anh đồ, em hỏi hình-hài chữ chi?
Em vốn kẻ đa tình háo sắc
Tính nết này không xấu mà được khen
Đất một tấc em cũng không bán
Giữ mái nhà sản nghiệp cha ông
獄 (狱) Chó nhà 犭 cùng với chó ta 犬
Hai con nói chuyện 言thì ra chữ gì?
Một người 人 đi trước,
một người 人 theo sau,
giữa là khoảng lặng,
xôn xao tình đầu…

Thị tại môn tiền náo
Nguyệt tại môn hạ nhàn
Thế gian cũng lắm sự hài
Dưới cây(木) đốt lửa(灬)người tài ló ra!
Lưỡng nhật bình đầu nhật
Tứ sơn điên đảo sơn
Lưỡng vương tranh nhất quốc
Tứ khẩu tung hoành giang.
Tựa cây (木) mỏi mắt (目) chờ mong
Người nơi xa ấy trong lòng (心) có hay?
Thằng quỷ 鬼 ôm cái đấu 斗 đứng cửa khôi 魁 nguyên
Con mộc 木 dựa cây bàng 旁 dòm nhà bảng 榜 nhãn
Một MỘC chỉ mới là cây
Hai MỘC ghép lại trồng cây gây rừng
Thêm MỘC ở phía lưng chừng
Chữ SÂM rậm rạp khu rừng âm u
Hai người nối bước duôi nhau
Một người đi trước đi sau một người
Một người đứng ở trên cao
Một người đi trước đi sau một người
Con nhỏ còn cõng trên lưng
Cháu nội về đến kính mừng tuổi ông
Một người lên núi tu tiên
Nhân sơn ghép lại chữ TIÊN tạo thành
Đất kia ai đắp nên thành
Một bên chữ THỔ chữ THÀNH một bên
Chữ HỎA đứng cạnh chữ HÒA
thêm TÂM bên dưới chính là SẦU thu
Chữ SỰ mà mất cái chân
Thêm vào bộ NỮ nên vần chữ THÊ
chữ ĐAO mà để trên đầu
chữ TÂM ở dưới nghĩa câu nhịn nhường
nghe đồn anh giỏi kinh thi
THẬP trên KHẨU dưới chữ gì hỡi anh
Nhị MỘC hợp lại thành LÂM
Dưới thêm bộ HỎA chữ PHẦN đốt thiêu
Hai cây xích lại thành rừng
Dưới thêm ngọn lửa phừng phừng cháy thiêu
Thôi rồi một cánh rừng tiêu
Chữ PHẦN mang nghĩa đốt thiêu đấy mà
Mái nhà là mái nhà tranh
Sao ai đem lửa để dành dưới chân
Chữ TAI nay đã nên vần
Ấy là nạn đến cũng phần số thôi
MỄ mà để giữa hai CUNG
Thì thànnh chữ CHÚC cháo dùng mà thôi
Thân khuyển mà muốn thành vương
thế gian một chữ ngông cuồng đó em
Nhân tựa mộc, mộc kề nhân
Đố em biết được nên vần chữ chi
anh Nhật đứng ở bên hông
Thổ trên thốn dưới phải không bác Thởi
Trâu già đi trước vẫy đuôi
Nước văng ba giọt tẩy xuôi bụi trần
lấy trăng làm ghế vua ngồi
Nói lời tốt đẹp thình mời vua sang
Chữ vương đã chót trồi đầu
nguyệt kề bên dưới sắc màu xanh xanh
Nước thêm 3 giọt trong lành
Không gian thoáng đãng tạo thành chữ Thanh
宿 mái nhà một mái nhà thôi
Nhân đứng không ngồi vừa chẵn đủ trăm
Tay nào che mắt mi cong
Nhìn xa phương ấy chờ mong người về
Tường cao bốn bức tù lao
Gió chẳng lọt vào nhân mỏi mắt mong
con khuyển mày nấp dưới hang
Đột nhiên chạy đến sủa vang cái gì ?
Hoàng hôn khuất núi chiều tà
Cảm thương tuế nguyệt với ta vô tình
chữ thập xẻ nửa vất đi
Miệng trên bốn lửa điểm ra tức thì
con gái ngồi tựa gốc cây
Đầu đội gạo trắng mơ xây nhà lầu
thằng tây ở chốn thị thành
thích chơi cổ phiếu nên sành bán mua
chữ thương vốn thuộc bộ đầu
Bát trên bát dưới vi rào vây quanh
khẩu thời ở giữa tung hoành
bao nhiêu chữ ấy hợp thành chữ thương
Ruộng sào treo tít ngọn cây
Đố anh thầy khóa nói gnay chữ gì
chạy đâu vướng phải dây thừng
Khởi chưa tròn nét phải dừng bút thôi
Nhà em kín cổng tường cao
một gian phòng giữa ba rào vây quanh
Đàn kêu tích tịch tình tang
ban đêm xem bói thế gian chuyện cười
chân tiên ai bỏ đâu rồi
sao thêm vào khẩu bảo người nói ta
ai đem bát bỏ làm chân
trên gieo ba chấm gạch phân rõ ràng
nhất nhân hiệp lại
thành đại bên trên
khả đành đứng dưới mã bên cận kề
con dê cột ở gốc cây
lạc mẹ xa bầy dáng vẻ buồn thiu
Nhĩ tâm khẩu bát bên hông
Cùng nhau hợp lại chữ thông ấy mà

Chúc tiến bộ.

Thành tựu không đến từ sự thờ ơ, mộng ảo và ý chí cùn mà đến từ bàn tay, khối óc luôn miệt mài tranh đấu với thời gian.